- Thận trọng khi sử dụngCảnh báo Hút thuốc làm tăng nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng trên tim mạch của cóc thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Nguy cơ này tăng theo tuổi và lượng thuốc hút và thể hiện rõ ở phụ nữ trên 35 tuổi. Phụ nữ trên 35 tuổi có hút thuốc nên sử dụng các biện pháp tránh thai khác. Sử dụng các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp có liên quan với tăng nguy cơ các bệnh nghiêm trọng khác nhau như nhồi máu cơ tim, huyết khối, đột quỵ hoặc khối u ở gan. Các yếu tố nguy cơ khác nhau như tăng huyết áp, tăng lipid máu, béo phì và đái tháo đường làm tăng rõ rệt nguy cơ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Nếu có bất kỳ tình trạng hoặc yếu tố nguy cơ nào dưới đây, nên thảo luận với người phụ nữ về tính phù hợp của Belara trước khi dùng. Trong trường hợp tăng nặng hoặc lần đầu xuất hiện các tình trạng hoặc yếu tố nguy cơ này, người phụ nữ cần được tư vấn đến gặp bác sĩ để xác định xem có nên ngừng thuốc hay không. Huyết khối thuyên tắc mạch và các bệnh lý mạch máu khác Các kết quả nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có mối liên quan giữa việc dùng thuốc tránh thai nội tiết và tầng nguy cơ huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch hoặc động mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, huyết khối tĩnh mạch sâu và nghẽn mạch phổi. Hiếm gặp các biến cố này. Rất hiếm khi huyết khối được báo cáo trên người dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp ở những mạch máu khác, ví dụ: động mạch và tĩnh mạch gan, mạc treo ruột, mạch thận hoặc võng mạc. Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch (VTE) Việc sử dụng các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch so với không sử dụng. Các thuốc chứa levonorgestrel, norgestimat hoặc norethisterone có liên quan đến nguy cơ huyết khối tĩnh mạch thấp nhất. Hiện chưa biết nguy cơ huyết khối tĩnh mạch của Belara so với các thuốc tránh mai có nguy cơ thấp hơn này là như thế nào. Quyết định sử dụng bất kỳ thuốc tránh thai khác những loại thuốc có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch thấp nhất chỉ nên đưa ra sau khi đã thảo luận với người dùng thuốc để đảm bảo họ hiểu nguy cơ huyết khối tĩnh mạch của Belara, ảnh hưởng của các yếu tố nguy cơ mà người dùng hiện đang có lên nguy cơ này, và rằng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch là cao nhất trong năm đầu tiên sử dụng. Cũng có một số bằng chứng cho thấy nguy cơ này tăng lên khi thuốc tránh thai nội tiết phối hợp được bắt đầu dùng lại sau khi ngừng dùng 4 tuần hoặc lâu hơn. Ở phụ nữ không dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp và không mang thai, có khoảng 2/10.000 người sẽ bị huyết khối tĩnh mạch trong thời gian một năm. Tuy nhiên, bất kỳ phụ nữ nào cũng có thể có nguy cơ cao hơn tùy thuộc vào họ có các yếu tố nguy cơ sẵn có hay không (xem phần nội dung dưới đây). Nghiên cứu dịch tễ học ở phụ nữ dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp liều thấp (chứa < 50 ug ethinylestradiol) cho thay cứ 10.000 phụ nữ thì có khoảng 6-12 người sẽ bị huyết khối tĩnh mạch trong một năm. Trong 10.000 phụ nữ dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp chứa levonorgestrel, khoáng 6(*) người sẽ bị huyết khối tĩnh mạch trong một năm. Chưa biết nguy cơ của thuốc tránh thai nội tiết phối hợp chứa chlormadinone so với nguy cơ của thuốc tránh thai nội tiết phối hợp chứa levonorgestrel như thế nào. Số ca huyết khối tĩnh mạch mỗi năm khi dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp liều thấp là ít hơn so với số ca có thể gặp khi mang thai hoặc trong giai đoạn hậu sản. Huyết khối tĩnh mạch có thể gây tử vong với tỉ lệ 1-2%. (*) Điểm giữa trong khoảng 5-7/10.000 phụ nữ/năm, dựa trên nguy cơ tương đối của thuốc tránh thai nội tiết phối hợp chứa levonorgestrel so với không sử dụng xấp xỉ khoảng 2,3 đến 3,6. Các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch Nguy cơ các biến chứng huyết khối tĩnh mạch ở người dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp có thể tăng ở phụ nữ có các yếu tố nguy cơ kèm theo, đặc biệt là khi có nhiều yếu tố nguy cơ cùng lúc (xem bảng dưới đây). Chống chỉ định dùng Belara nếu người phụ nữ có nhiều yếu tố nguy cơ, làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch (xem mục 4.3). Nếu người phụ nữ có nhiều hơn một yếu tố nguy cơ, có thể sẽ tăng nguy cơ nhiều hơn là tổng cộng của các yếu tố nguy cơ đơn lẻ - trong trường hợp này cần xem xét nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tổng thể. Nếu nguy cơ của việc dùng thuốc cao hơn lợi ích đem lại thì không nên kê đơn thuốc tránh thai nội tiết phối hợp (xem mục 4,3). Bảng: Các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch Yếu tố nguy cơ | Đánh giá | Béo phì (chỉ số khối cơ thể trên 30 kg/m2) | Nguy cơ tăng đáng kể khi chỉ số khối cơ thể tăng. Cần đặc biệt xem xét nếu có thêm các yếu tố nguy cơ khác. | Bất động kéo dài, đại phẫu hoặc bất kỳ phẫu thuật nào ở chân hoặc khung chậu, phẫu thuật thần kinh hoặc chấn thương lớn. Lưu ý: Tình trạng bất động tạm thời bao gồm di chuyển theo đường hàng không trên 4 giờ cũng có thể là yếu tố nguy cơ cao huyết khối tĩnh mạch, đặc biệt ở những phụ nữ có thêm các yếu tố nguy cơ khác. | Trong những trường hợp này nên ngừng dùng dạng miếng dán/ thuốc viên/ vòng tránh thai đặt âm đạo (trong trường hợp có phẫu thuật theo chương trình ít nhất là 4 tuần trước đó) và không dùng thuốc ít nhất 2 tuần sau khi vận động trở lại hoàn toàn. Nên dùng biện pháp tránh thai khác để tránh mang thai ngoài ý muốn. Có thể phải xem xét dùng liệu pháp kháng huyết khối nếu không ngừng dùng Belara trước đó | Tiền sử gia đình (huyết khối tĩnh mạch đã gặp ở anh chị em ruột hoặc cha mẹ đặc biệt ở độ tuổi tương đối trẻ, ví dụ: trước 50 tuổi) | Nếu nghi ngờ khả năng di truyền, người phụ nữ nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa trước khi quyết định dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. | Các tình trạng sức khỏe liên quan đến huyết khối tĩnh mạch | Ung thư, lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng tan huyết urê huyết, viêm ruột mạn tính (Bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng) và bệnh hồng cầu hình liềm | Lớn tuổi | Nhất là phụ nữ trên 35 tuổi |
Vẫn chưa có sự thống nhất về việc liệu có sự liên quan giữa viêm tắc tĩnh mạch nông và giãn tĩnh mạch trong việc làm khởi phát hoặc tiến triển huyết khối tĩnh mạch hay không. Phải lưu ý nguy cơ huyết khối tăng ở phụ nữ mang thai, và đặc biệt là trong giai đoạn 6 tuần quanh thời gian sinh con (thông tin về "Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú" xin xem mục 4.6). Các triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch (huyết khối tĩnh mạch sâu và nghẽn mạch phổi) Nếu có các triệu chứng sau, người phụ nữ cần được chăm sóc y tế ngay và thông báo cho bác sỹ nếu đang dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Các triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch sâu có thể bao gồm: - Sưng một bên chân và/hoặc bàn chân hoặc dọc theo tĩnh mạch chân; - Đau hoặc căng cứng ở chân chỉ có thể câm nhộn khi đứng hoặc đi bộ; - Chân bị ảnh hưởng có cảm giác ốm hơn, da chân trở nên đỏ hoặc đổi màu. Các triệu chứng của nghẽn mạch phổi có thể bao gồm: - Đột ngột khởi phát thở ngắn không rõ nguyên nhân hoặc thở gấp; - Đột ngột ho, có thể kèm ho ra máu; - Đau buốt ở ngực; - Chóng mặt, choáng váng nặng; - Nhịp tim nhanh hoặc bất thường. Một vài trong số các triệu chứng này (ví dụ: "hơi thở ngắn", "ho") không đặc hiệu và có thể bị hiểu sai thành những biểu hiện thông thường hoặc không nghiêm trọng (ví dụ: nhiễm khuẩn đường hô hấp). Các dấu hiệu khác về tắc nghẽn mạch có thể bao gồm: đau đột ngột, chi bị sưng và chuyển sang màu xanh nhạt. Nếu bị nghẽn mạch ở mắt, triệu chứng có thể thay đổi từ nhìn mờ không đau, sau đó có thể tiến triển thành mất thị lực. Đôi khi có thể không nhìn thấy hầu như ngay lập tức. Nguy cơ huyết khối động mạch (ATE) Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy có mối liên quan giữa việc dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp với tăng nguy cơ huyết khối động mạch hoặc tai biến mạch máu não (ví dụ: cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, đột quỵ). Các biến cố huyết khối động mạch có thể gây tử vong. Các yếu tố nguy cơ huyết khối động mạch Nguy cơ biến chứng huyết khối động mạch (nhồi máu cơ tim) hoặc tai biến mạch máu não ở người dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp tăng lên ở những phụ nữ có yếu tố nguy cơ (xem bảng ng dưới đây). Chống chỉ định Belara nếu người phụ nữ có một yếu tố nguy cơ nghiêm trọng hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ huyết khối động mạch vì điều này gây nguy cơ cao bị huyết khối động mạch (xem mục 4.3). Nếu người phụ nữ có nhiều hơn một yếu tố nguy cơ, nguy cơ huyết khối động mạch sẽ có khả năng tăng cao hơn tổng của các yếu tố riêng lẻ - trong trường hợp này cần phải xem xét nguy cơ tổng thể của người đó. Nếu nguy cơ của việc dùng thuốc cao hơn lợi ích đem lại thì không nên dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp (xem mục 4.3). Bảng: Các yếu tố nguy cơ huyết khối động mạch Yếu tố nguy cơ | Đánh giá | Lớn tuổi | Nhất là trên 35 tuổi | Hút thuốc | Phụ nữ không nên hút thuốc nếu muốn dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Những phụ nữ trên 35 tuổi và có hút thuốc thì dứt khoát nên dùng biện pháp tránh thai khác. | Tăng huyết áp | | Béo phì (chỉ số khối cơ thể trên 30 kg/m2) | Nguy cơ tăng đáng kể khi chỉ số khối cơ thể tăng. Cần đặc biệt xem xét nếu có thêm các yếu tố nguy cơ khác | Tiền sử gia đình (huyết khối tĩnh mạch đã gặp ở anh chị em ruột hoặc cha mẹ đặc biệt ở độ tuổi tương đối trẻ, ví dụ: trước 50 tuổi) | Nếu nghi ngờ khả năng di truyền, người phụ nữ nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa trước khi quyết định dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. | Đau nửa đầu | Tăng tần suất và cường độ của cơn đau nửa đầu trong khi dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp (có thể là dấu hiệu báo trước của một biến cố mạch não) có thể là lý do phải ngưng thuốc ngay lập tức. | Các tình trạng sức khỏe liên quan đến các biến cố bất lợi trên mạch | Đái tháo đường, tăng homocystein máu, bệnh van tim và rung nhĩ, rối loạn lipoprotein máu vộ lupus ban đỏ hệ thống. | Các triệu chứng của huyết khối động mạch Nếu có cóc triệu chứng sau, người phụ nữ cần được chăm sóc y tế ngay và thông báo cho bác sỹ nếu đang dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Những triệu chứng của tai biến mạch máu não có thể bao gồm: - Đột ngột tê hoặc yếu cơ ở mặt, cánh tay hoặc chân, đặc biệt là ở cùng một bên của cơ thể; - Đột ngột đi lại khó khăn, chóng một, mất khả năng giữ thăng bằng hoặc phối hợp động tác; - Đột ngột bị lẫn lộn, nói hoặc hiểu khó; - Đột ngột nhìn khó ở một hoặc cả hai mắt; - Đau đau đột ngột, đau đầu nặng hoặc kéo dài mà không rõ nguyên nhân; - Mất nhận thức hoặc bị ngất có hoặc không có động kinh; - Các triệu chứng tạm thời gợi ý cơn thoáng thiếu máu não (TIA). Các triệu chứng của nhồi máu cơ tim có thể bao gồm: - Đau, khó chịu, cảm giác bị chèn ép, tức ngực, cảm giác căng tức ở cánh tay hoặc dưới xương ức; - Khó chịu lan tỏa ở lưng, hàm, họng, cánh tay và bụng; - Cảm giác no đầy, khó tiêu, nghẹt thồ; - Toát mồ hôi, buồn nôn, nôn hoặc chóng mặt; - Mệt mỏi dữ dội, lo lắng, hơi thở ngắn; - Nhịp tim nhanh hoặc bất thưởng. Người dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp cần phải được thông báo rằng họ cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trong trường hợp xuất hiện các triệu chứng có thể có của huyết khối. Nếu có nghi ngờ hoặc không định huyết khối, phải ngừng Belara ngay. Các khối u Một vài nghiên cứu dịch tễ học cho thấy sử dụng dài ngày các thuốc tránh thai nội tiết là yếu tố nguy cơ cho sự phát triển ung thư cổ tử cung trên phụ nữ bị nhiễm HPV (human papilloma virus). Tuy nhiên, vẫn còn những tranh cãi về mức độ các kết quả này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố gây nhiễu (như sự khác biệt về số lượng bạn tình hoặc việc sử dụng các biện pháp tránh thai cơ học) (xem thêm mục "Khám lâm sàng"). Một phân tích gộp từ 54 nghiên cứu dịch tễ học đã báo cáo có sự tăng nhẹ nguy cơ tương đối (RR= 1,24) mốc ung thư vú được chẩn đoán trên phụ nữ đang sử dụng các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Nguy cơ gia tăng này chỉ thoáng qua và dần mất đi trong khoảng 10 năm sau khi ngừng dùng thuốc. Các nghiên cứu này không cung cấp bằng chứng về mối quan hệ nhân quả. Mô hình quan sát về nguy cơ gia tăng này có thể do ung thư vú được chẩn đoán sớm hơn trên người dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp, do tác dụng sinh học của cóc thuốc này hoặc kết hợp cả hai nguyên nhân. Trong các trường hợp lành tính hiếm gặp và trong thậm chí ít hơn các trường hợp, u gan ác tính đã được báo cáo trong quá trình sử dụng thuốc tránh thai nội tiết. Trong các trường hợp đơn lẻ, khối u gây xuất huyết ổ bụng đe dọa tính mạng. Trong trường hợp đau bụng dữ dội không tự khỏi, gan to hoặc các dấu hiệu xuất huyết ổ bụng, phải xem xét đến khả năng khối u tại gan và phải ngừng sử dụng Belara. Các bệnh lý khác Tâm trạng chán nản và trầm cảm là tác dụng không mong muốn thưởng gộp của thuốc tránh thai nội tiết (xem mục 4.8). Trầm cảm có thể nặng và là một yếu tố nguy cơ thường gặp dẫn đến hành vi tự tử. Phụ nữ nên được tham vấn liên hệ với nhân viên y tế của họ trong trường hợp có những thay đổi trong tâm trạng và các triệu chứng trầm cảm ngay cả khi mới bắt đầu điều trị. Nhiều phụ nữ dùng thuốc tránh thai nội tiết có tăng huyết áp nhẹ; tuy nhiên, tăng huyết áp có ý nghĩa lâm sàng hiếm khi xảy ra. Mối liên quan giữa việc dùng thuốc tránh thai nội tiết và tăng huyết áp biểu hiện trên lâm sàng cho tới nay vẫn chưa được khẳng định. Nếu gặp tăng huyết áp có ý nghĩa lâm sàng trong khi dùng Belara, phải ngừng dùng thuốc và điều trị tăng huyết áp. Có thể tiếp tục dùng Belara ngay khi huyết áp trở về bình thường trong khi đang điều trị tăng huyết áp. Trên phụ nữ có tiên sử herpes sinh dục, bệnh có thể tái phát trong thời gian dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Ở phụ nữ có tiền sử hoặc tiền sử gia đình tăng triglyceride máu, nguy cơ viêm tụy gia tăng trong thời gian dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Rối loạn chức năng gan cấp tính hoặc mạn tính có thể cần ngừng dùng thuốc tránh thai phối hợp cho đến khi chức năng gan trở về bình thường. Nếu có tái phát vàng da ứ mật đã xuất hiện trong thời kỳ mang thai hoặc khi sử dụng các nội tiết tố sinh dục trước đây, cần ngừng dùng thuốc tránh thai nội tiết phối hợp. Các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp có thể ảnh hưởng đến sự đề kháng insulin ngoại vi hoặc sự dung nạp glucose. Do đó, bệnh nhân đái tháo đường nên được theo dõi chặt trong khi dùng các thuốc tránh thai nội tiết. Ít khi xảy ra nám da, đặc biệt trên phụ nữ có tiền sử nám da thai kỳ. Phụ nữ có khuynh hướng bị nám da nên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và tia tử ngoại trong thời gian dùng thuốc tránh thai nội tiết. Thận trọng Sử dụng estrogen hoặc kết hợp estrogen và progesterone có thể ảnh hưởng xấu trên một số bệnh và/ hoặc tình trạng. Giám sát y tế đặc biệt cần thiết trong trường hợp: - Động kinh; - Xơ cứng bì rải rác; - Uốn ván; - Đau nửa đầu (xem thêm mục 4.3); - Hen phế quản; - Suy tim hoặc suy thận; - Múa giật nhẹ; - Đái tháo đường (xem mục 4.3); - Các bệnh lý gbn (xem mục 4.3); - Rối loạn lipoprotein máu (xem mục 4.3); - Các bệnh tự miễn (bao gồm lupus ban đỏ hệ thống); - Béo phì; - Tăng huyết áp (xem mục 4.3); - Lạc nội mạc tử cung; - Giãn tĩnh mạch; - Viêm tĩnh mạch (xem mục 4.3); - Rối loạn đông máu (xem mục 4.3); - Bệnh tuyến vú; - U xơ tử cung; - Herpes sinh dục; - Trầm cảm; - Viêm ruột mạn tính (bệnh Crohn, viêm loét đại tràng; xem mục 4.8). Khám lâm sàng và tư vấn Trước khi bắt đầu dùng hoặc bắt đầu dùng lại Belara, phải xem xét toàn bộ tiền sử bệnh của người phụ nữ (bao gồm cả tiền sử gia đình) và loại trừ khả năng mang thai. Cần đo huyết áp và thăm khám lâm sàng theo hướng dẫn ở phần chống chỉ định (xem mục 4.3) và phần cảnh báo (xem mục 4.4). Nên lặp lại các kiểm tra này hàng năm trong quá trình dùng Belara. Khám lâm sàng thường xuyên cũng cần thiết do các chống chỉ định (như cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua) hoặc các yếu tố nguy cơ (như tiền sử gia đình có huyết khối động mạch hoặc tĩnh mạch) có thể lần đầu tiên xuất hiện hoặc trở nên rõ ràng khi dùng thuốc tránh thai nội tiết. Khám lâm sàng phải bao gồm đo huyết áp, kiểm tra vú, bụng, cơ quan sinh dục trong và cơ quan sinh dục ngoài, xét nghiệm phết cổ tử cung, và các xét nghiệm cần thiết. Điều quan trọng là lưu ý người phụ nữ các thông tin về huyết khối tĩnh mạch và huyết khối động mạch, bao gồm nguy cơ của Belara so với các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp khác, các triệu chứng của huyết khối tĩnh mạch và huyết khối động mạch, các yếu tố nguy cơ đã biết và những việc cần làm khi nghi ngờ có huyết khối. Người phụ nữ cần được hướng dẫn đọc kỹ tờ hướng dẫn sử dụng và tuân thủ những chỉ dẫn trong đó. Tần suất và nội dung của việc thăm khám nên dựa trên các hướng dẫn thực hành và áp dụng trên từng phụ nữ. Người phụ nữ cần được tư vấn rằng việc dùng các thuốc tránh thai nội tiết không bảo vệ khỏi lây nhiễm HIV (AIDS) hoặc các bệnh lây truyền qua đường tinh dục khác. Thuốc không đạt hiệu quả Quên thuốc (xèm mục "dùng thuốc không thường xuyên"), nôn hoặc các rối loạn đường tiêu hóa bao gồm tiêu chảy, dùng đồng thời dài ngày với một số thuốc (xem mục 4.5) hoặc các trường hợp rối loạn chuyển hóa rất hiếm gặp có thể làm giảm hiệu quả tránh thai của thuốc. Ảnh hưởng đến việc kiểm soát chu kỳ Xuất huyết lấm tấm hoặc xuất huyết giữa kỳ Tất cả các thuốc tránh thai nội tiết đều có thể gây chảy máu âm đạo bất thường (xuất huyết Iấm tấm hoặc xuất huyết giữa kỳ), đặc biệt trong một vài chu kỳ đầu khi dùng thuốc. Do đó, chỉ nên khám chu kỳ bất thường sau khi đã trải qua giai đoạn điều chỉnh khoảng 3 chu kỳ. Nếu trong quá trình dung Belara vẫn có xuất huyết giữa kỳ dai dẳng, hoặc xảy ra khi chu kỳ trước đó bình thường, nên thăm khám để loại trừ khả năng mang thai hoặc bệnh lý. Sau khi loại trừ khả năng có thai và bệnh lý, có thể tiếp tục dùng Belara hoặc chuyển sang một thuốc tránh thai khác. Xuất huyết giữa chu kỳ có thể là dấu hiệu giảm hiệu quả tránh thai (xem mục "dùng thuốc không thường xuyên", "Hướng dẫn trong trường hợp có nôn" và mục 4.5). Không thấy xuất huyết cuối kỳ Sau 21 ngày dùng thuốc, thường sẽ thấy xuất huyết cuối kỳ. Đôi khi, nhất là trong một vài tháng đầu dùng thuốc, có thể không thấy xuất huyết cuối kỳ. Tuy nhiên, hiện tượng này không phải là dấu hiệu thuốc bị giảm tác dụng tránh thai. Nếu không thấy xuất huyết sau một chu kỳ không bị quên thuốc, giai đoạn ngưng thuốc không kéo dài quá 7 ngày, không có thuốc nào dùng đồng thời và không bị nôn hoặc tiêu chảy, thì không có khả năng thụ thai và vẫn có thể tiếp tục dùng Belara. Nếu Belara không được dùng đúng theo chỉ dẫn trước khi không thấy xuất huyết cuối kỳ lần đầu không thấy xuất huyết cuối kỳ trong 2 chu kì liên tiếp, phải loại trừ khả năng mang thai trước khi tiếp tục dùng thuốc. Không nên dùng cốc thuốc chứa cỏ thánh John (Hypericum perforatum cùng với Belara (xem mục 4.5). Tăng ALT Trong các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân đang chữa trị viêm gan siêu vi C (HCV) với các thuốc chứa ombitasvir, paritaprevir, ritonavir và dasabuvir kèm theo hoặc không kèm theo ribavirin, nồng độ transaminase (ALT) tăng hơn 5 lần giới hạn trên của mức thông thường (ULN) đã xuất hiện thường xuyên hơn đáng kể ở những phụ nữ sử dụng thuốc chứa ethinyl estradiol như các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp (xem mục 4.3 và 4.5). Thuốc này có chứa lactose (dưới dạng lactose monohydrat). Bệnh nhân mắc các bệnh di truyền hiếm gặp như không dung nạp galactose, thiếu hụt men lactase hoặc kém hấp thu glucose-galactose không nên dùng thuốc này. - Thai kỳ và cho con búThời kỳ mang thai Belara không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai. Trước khi bắt đầu sử dụng thuốc, phải loại trừ khả năng có thai. Nếu mang thai trong thời gian dùng Belara, phải ngừng thuốc ngay. Cho tới nay, hầu hết các nghiên cứu dịch tễ học mở rộng không cho thấy bằng chứng lâm sàng về tác động gây quái thai hoặc độc tính trên bào thai khi vô tình dùng estrogen trong thai kỳ kết hợp với các progestogen khác ở liều tương tự viên Belara. Mặc dù vậy, các thí nghiệm trên động vật dã cho thầy bằng chứng về độc tính trên sinh sàn (xem mục 5.3), các dữ liệu lâm sàng trên hơn 330 phụ nữ có thai phơi nhiễm với thuốc không cho thấy bất cứ ảnh hưởng nào trong bào thai của chlormadinone acetat. Khi bắt đầu dùng lại Belara cần lưu ý nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tăng lên trong thời kỳ sau sinh (xem mục 4.2 và 4.4). Thời kỳ cho con bú Sự tiết sữa có thể bị ảnh hưởng bởi estrogen do thuốc có thể làm thay đổi số lượng và thành phần của sữa mẹ. Một lượng nhỏ steroid tránh thai và/ hoặc các chất chuyển hóa của nó có thể bài tiết vào sữa mẹ và vì vậy có thể ảnh hưởng đến trẻ bú mẹ. Do đó không nên sử dụng Belara trong thời kỳ cho con bú. - Khả năng lái xe và vận hành máy mócChưa biết các thuốc tránh thai nội tiết phối hợp có ảnh hưởng xấu lên khả năng lái xe và vận hành máy hay không. - Tương tác thuốcLưu ý: Thông tin kê đơn của các thuốc dùng đồng thời nên được tham khảo để phát hiện những tương tác có thể xảy ra. Tương tác dược lực học Sử dụng đồng thời với các thuốc chứa ombitasvir, paritaprevir, ritonavir và dasabuvir kèm theo hoặc không kèm ribavirin có thể làm tăng nguy có tăng ALT xem mục 4.3 và mục 4.4. Do đó, người dùng Belara nên chuyển sang các biện pháp tránh thai thay thế (ví dụ thuốc tránh thai chỉ chứa progestin hoặc phương pháp tránh thai không dùng nội tiết tố) trước khi bắt đầu phác đồ điều trị kết hợp các thuốc nêu trên. Có thể bắt đầu sử dụng lại Belara 2 tuần sau khi hoàn thành liệu trình kết hợp các thuốc nêu trên. Tương tác dược động học Ảnh hưởng của cốc thuốc khác, lên viên nén bao phim Belara Các tương tác có thể xảy ra với những thuốc cảm ứng enzym microsom gan có thể dẫn đến tăng thanh thài nội tiết tố sinn dục và có thể gây xuất huyết giữa kỳ và/ hoặc việc tránh thai thất bại. Xử trí Sự cảm ứng enzym có thể quan sát thấy sau vài ngày điều trị. Mức độ cảm ứng enzym cực đại thường thấy được sau vài tuần. Sau khi ngừng thuốc, cảm ứng enzym có thể duy trì trong khoảng 4 tuần. Điều trị ngắn hạn Phụ nữ diễu trị ngắn hạn với thuốc cảm ứng enzym nên sử dụng tạm thời biện pháp tránh thai cơ học hoặc phương pháp tránh thai khác cùng với thuốc tránh thai phối hợp đường uống. Biện pháp tránh thai cơ học nên được sử dụng trong toàn bộ thời gian điều trị đổng thời và 28 ngày sau khi ngưng thuốc. Nếu sau khi dùng hết vỉ thuốc tránh thai mà liệu trình điều trị vẫn còn tiếp tục, nên sử dụng ngay vỉ thuốc tránh thai tiếp theo mà không cần giai đoạn ngưng thuốc 7 ngày thông thường. Điều trị dài hạn Ở những phụ nữ điều trị dài hạn với các thuốc cảm ứng hoạt tính enzyme, khuyến cáo sử dụng biện pháp tránh thai đáng tin cậy khác không chứa nội tiết tố. Những tương tác sau đã được báo cáo trong y văn. Các chất làm tăng thanh thải thuốc tránh thai phối hợp đường uống (giảm hiệu quả thuốc tránh thai phối hợp đường uống do cảm ứng enzym), Ví dụ: Các barbiturat, bosentan, carbamazepin, barbexaclon, phenytoin, primidon, modafinil, rifampicin, rifabutin, và các thuốc điều trị HIV ritonavir, nevirapine, và efavirenz và cũng có thể felbamate, griseofulvin, oxcarbazepin, topiramate và các sản phẩm chứa dược liệu cỏ thánh John (Hypericum perforatum). Các thuốc/hoạt chất dưới đây có thể làm giám nồng độ ethinylestradiol trong huyết thanh: - Tất cả các thuốc làm tăng nhu động dạ dày ruột (như metoclopramid) hoặc làm giảm hấp thu (như than hoạt); Các chất có ảnh hưởng khác nhau lên độ thanh thải của thuốc tránh thai phối hợp đường uống Khi sử dụng đồng thời với thuốc tránh thai phối hợp đường uống, sự kết hợp giữa thuốc ức chế HIV-protease và thuốc ức chế enzym phiên mã ngược không nucleosid, kể cả khi kết hợp với thuốc ức chế HCV có thể làm tăng hoặc giảm nồng độ của estrogen hợp progesterone trong huyết tương. Tác động chung của sự thay đổi này có thể có tương quan lâm sàng trong một vài trường hợp. Do đó nên tham khảo thông tin kê đơn của thuốc HIV/HCV sử dụng đồng thời để xác định các tương tác có thể xảy ra và các khuyến cáo liên quan. Trong trường hợp có nghi ngờ, cần dùng thêm biện pháp tránh thai cơ học đối với những phụ nữ đang điều trị với thuốc ức chế protease hoặc thuốc ức chế enzym phiên mã ngược không nucleosid. Các thuốc/hoạt chất dưới đây có thể làm tăng nồng độ ethinyl estradiol huyết thanh: - Các hoạt chất ức chế quá trình sulphat hóa ethinylestradiol tại thành ruột non, như acid ascorbic hope; paracetamol; - Atorvastatin (làm tăng 20% diện tích dưới đường cong hấp thu của ethinylestradiol); - Các hoạt chất ức chế enzym microsom gan như các thuốc kháng nấm nhóm imidazol (ví dụ fluconazole, indinavir hoặc troleandomycin. Ảnh hưởng của viên nén bao phim Belara lên các thuốc khác: - Bằng cách ức chế enzym microsom gan và kết quả là làm tăng nồng độ huyết thanh của các hoạt chất như diazepam (và các benzodiazepin khác được chuyển hóa bằng con đường hydroxyl hóa), cyclosporin, theophylin và prednisolon; - Bằng cách cảm ứng quá trình liên hợp glucuronid tại gan và kết quả là làm giảm nồng độ huyết thanh của một số thuốc như lamotrigin, clofibrate, paracetamol, morphin và lorazepam. Nhu cầu sử dụng insulin và các thuốc chống đái tháo đường dùng đường uống có thể thay đổi do ảnh hưởng lên khả năng dung nạp glucose (xem mục 4.4). Điều này cũng có thể áp dụng với các thuốc dùng trong thời gian gần. Nên kiểm tra bản tóm tắt đặc tính thuốc của các thuốc được kê đơn về khả năng tương tác với Belara. Các xét nghiệm Việc sử dụng các thuốc tránh thai nội tiết có thể ảnh hưởng kết quả một số xét nghiệm, bao gồm các chỉ số sinh hóa chức năng gan, thận, thượng thận và tuyến giáp, nồng độ huyết tương của các protein màng ([như globulin gắn corticosteroid, mảnh lipid/lipoprotein), các thông số chuyển hóa carbohydrate, thông số đông máu và tiêu fibrin. Các thay đổi này nhìn chung vẫn trong giới hạn xét nghiệm bình thường. |