- Thận trọng khi sử dụng Ban trên da Đã có báo cáo về phản ứng phụ trên da, thường xuất hiện trong vòng 8 tuần đầu sau khi bắt đầu điều trị bằng LAMICTAL. Phần lớn các ban này nhẹ và tự giới hạn, tuy nhiên cũng đã có báo cáo về ban nặng phải nhập viện và ngừng dùng LAMICTAL. Đó là những trường hợp phát ban đe dọa tính mạng như hội chứng Stevens-Johnson (SJS) và hoại tử biểu bì nhiễm độc (TEN) (xem phần Tác dụng không mong muốn) . Tỷ lệ ban nặng trên da khoảng 1/500 ở những bệnh nhân người lớn bị động kinh sử dụng liều đề nghị của LAMICTAL trong các thử nghiệm lâm sàng. Khoảng một nửa những trường hợp này có báo cáo hội chứng Stevens Johnson (1/1000). Trong những thử nghiệm lâm sàng trên những bệnh nhân rối loạn lưỡng cực, tỷ lệ xuất hiện ban nặng khoảng 1/1000. Nguy cơ xuất hiện ban trên da nặng ở trẻ em cao hơn ở người lớn. Số liệu có sẵn từ nhiều nghiên cứu gợi ý tỷ lệ xuất hiện ban cần nhập viện ở trẻ là từ 1/300 đến 1/100. Ở trẻ, biểu hiện khởi đầu của phát ban có thể bị nhầm với một nhiễm khuẩn, do đó thầy thuốc cần xem xét khả năng phản ứng thuốc ở trẻ khi xuất hiện các triệu chứng của phát ban và sốt trong 8 tuần điều trị đầu tiên. Hơn nữa, nguy cơ chung của phát ban liên quan chặt chẽ với: + Liều LAMICTAL khởi đầu cao và vượt quá hướng dẫn tăng liều khi điều trị bằng LAMICTAL (xem phần Liều dùng và Cách dùng). + Sử dụng kết hợp với valproate (xem phần Liều dùng và Cách dùng). Phải thận trọng khi sử dụng thuốc cho các bệnh nhân có tiền sử dị ứng hoặc phát ban khi dùng các thuốc chống động kinh khác do tần suất phát ban nhẹ sau khi điều trị bằng LAMICTAL cao hơn khoảng 3 lần ở những bệnh nhân này so với những người không có tiền sử dị ứng, phát ban. Tất cả bệnh nhân phát ban (người lớn và trẻ em) nên được đánh giá ngay lập tức và ngừng dùng LAMICTAL ngay tức thì trừ khi những ban này rõ ràng không liên quan đến thuốc. Không nên tái sử dụng LAMICTAL cho những bệnh nhân đã ngừng sử dụng do phát ban liên quan đến điều trị LAMICTAL trước đó trừ khi lợi ích vượt trội nguy cơ. Ban cũng được báo cáo như một phần của hội chứng quá mẫn kết hợp với các triệu chứng toàn thân khác nhau bao gồm sốt, bệnh hạch bạch huyết, phù mặt, các bất thường về máu và gan và viêm màng não vô khuẩn (xem phần Tác dụng không mong muốn). Hội chứng này có nhiều mức độ nặng khác nhau trên lâm sàng, và có thể dẫn đến đông máu nội mạch rải rác (DIC) và suy nhiều cơ quan dù hiếm gặp. Cần lưu ý rằng những biểu hiện sớm của phản ứng quá mẫn (như sốt, bệnh hạch bạch huyết) có thể xuất hiện ngay cả khi chưa rõ phát ban. Nếu những dấu hiệu và triệu chứng trên xuất hiện nên đánh giá bệnh nhân ngay lập tức và ngừng dùng LAMICTAL nếu chưa xác định được nguyên nhân nào khác. Trong nhiều trường hợp, viêm màng não vô khuẩn mất đi khi ngừng dùng thuốc, nhưng lại tái phát trong một số trường hợp tái phơi nhiễm với lamotrigine. Những triệu chứng do tái phơi nhiễm với lamotrigine nhanh chóng xuất hiện lại và thường nghiêm trọng hơn. Không nên dùng lại lamotrigine cho những bệnh nhân đã ngừng dùng do viêm màng não vô khuẩn có liên quan đến điều trị trước đó bằng lamotrigine. Hội chứng thực bào tế bào máu (HLH) HLH đã xảy ra ở bệnh nhân dùng LAMICTAL (xem Tác dụng không mong muốn). HLH là một hội chứng kích hoạt miễn dịch bệnh lý, có thể đe dọa tính mạng, đặc trưng bởi các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng như sốt, phát ban, các triệu chứng thần kinh, u lao to, hạch bạch huyết, chứng giảm tế bào, ferritin huyết thanh cao, tăng triglyceride máu và bất thường chức năng gan và đông máu. Các triệu chứng thường xảy ra trong vòng 4 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Ngay lập tức đánh giá các bệnh nhân mà tiến triển các dấu hiệu và triệu chứng này và cân nhắc chẩn đoán HLH. Nên ngừng dùng thuốc LAMICTAL trừ khi nguyên nhân bệnh khác được thiết lập. Nguy cơ tự tử Các triệu chứng của trầm cảm và/hoặc rối loạn lưỡng cực có thể xuất hiện ở bệnh nhân động kinh, và đã có bằng chứng về nguy cơ tự tử cao ở những bệnh nhân động kinh và rối loạn lưỡng cực. 25 - 50% bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cố gắng tự tử ít nhất 1 lần, và các triệu chứng trầm cảm có thể nặng hơn và/hoặc xuất hiện ý muốn và có hành vi tự tử, dù có sử dụng hay không thuốc điều trị rối loạn lưỡng cực, kể cả LAMICTAL. Có báo cáo về ý muốn và hành vi tự tử của những bệnh nhân điều trị với các thuốc chống động kinh khi dùng cho nhiều chỉ định, kể cả chỉ định điều trị động kinh và rối loạn lưỡng cực. Một phân tích gộp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược về các thuốc điều trị động kinh (kể cả lamotrigine) cho thấy tăng nhẹ nguy cơ có ý muốn và hành vi tự tử. Chưa biết cơ chế gây ra nguy cơ này và dữ liệu có sẵn không loại trừ khả năng tăng nguy cơ này khi dùng lamotrigine. Do đó, nên theo dõi các dấu hiệu có ý muốn và hành vi tự tử của bệnh nhân. Nên khuyên bệnh nhân (và người chăm sóc bệnh nhân) đến để được tư vấn về y khoa nếu xuất hiện các dấu hiệu có ý muốn hoặc hành vi tự tử. Triệu chứng lâm sàng xấu đi trong rối loạn lưỡng cực Cần theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu lâm sàng xấu đi (kể cả việc xuất hiện các triệu chứng mới) và nguy cơ tự tử ở các bệnh nhân sử dụng LAMICTAL để điều trị rối loạn lưỡng cực, đặc biệt là ở thời điểm bắt đầu đợt điều trị hoặc lúc thay đổi liều. Với một số bệnh nhân, như những người có tiền sử có hành vi hoặc ý định tự tử, người trẻ tuổi, và những bệnh nhân thể hiện ý định tự tử rõ trước khi bắt đầu điều trị, có thể gặp nguy cơ có ý định hoặc cố gắng tự tử cao hơn và cần được theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị. Nên cảnh báo trước với bệnh nhân (và người chăm sóc bệnh nhân) cần phải theo dõi bất kì dấu hiệu nào xấu đi (kể cả việc xuất hiện triệu chứng mới) và/hoặc có sự xuất hiện ý định/hành vi tự tử hoặc có ý định tự làm tổn hại bản thân, và phải hỏi ý kiến của bác sỹ ngay lập tức khi các dấu hiệu này xuất hiện. Nên cân nhắc thay đổi chế độ điều trị, có thể ngừng dùng thuốc, ở những bệnh nhân có dấu hiệu lâm sàng xấu đi (kể cả việc xuất hiện triệu chứng mới) và/hoặc có sự xuất hiện ý định/hành vi tự tử, đặc biệt khi các triệu chứng này nặng, xuất hiện đột ngột hoặc chưa từng xuất hiện ở bệnh nhân. Thuốc tránh thai chứa hormone Ảnh hưởng của thuốc tránh thai chứa hormone đến hiệu quả của LAMICTAL Một phối hợp ethinylestradiol/levonorgestrel (30 microgram/150 microgram) đã được chứng minh là làm tăng thanh thải lamotrigine khoảng 2 lần, dẫn đến giảm nồng độ lamotrigine (xem phần Tương tác thuốc). Sau khi chuẩn độ, trong hầu hết các trường hợp, cần dùng lamotrigine liều duy trì cao hơn (đến gấp đôi) để đạt được đáp ứng điều trị tối đa. Ở những phụ nữ chưa dùng thuốc cảm ứng sự glucuronid hóa lamotrigine và đang dùng thuốc tránh thai chứa hormone, bao gồm một tuần dùng thuốc không có hoạt tính (ví dụ "tuần không dùng thuốc"), nồng độ lamotrigine sẽ tăng từ từ, thoáng qua trong tuần dùng thuốc không có hoạt tính. Nồng độ lamotrigine sẽ tăng cao hơn nếu đã tăng liều lamotrigine những ngày trước hoặc trong tuần dùng thuốc không có hoạt tính. Để có hướng dẫn về liều dùng xin xem phần "Khuyến cáo chung về liều của LAMICTAL cho những nhóm bệnh nhân đặc biệt, và phần Liều dùng và Cách dùng". Bác sĩ nên áp dụng biện pháp theo dõi lâm sàng thích hợp ở những phụ nữ bắt đầu hoặc ngừng dùng thuốc tránh thai chứa hormone trong thời gian dùng LAMICTAL và trong hầu hết các trường hợp, cần điều chỉnh liều lamotrigine. Việc dùng các thuốc tránh thai đường uống khác và các trị liệu thay thế bằng hormone (HRT) chưa được nghiên cứu, mặc dù những thuốc này có thể tác động tương tự đến các thông số dược động học của lamotrigine. Ảnh hưởng của LAMICTAL đến hiệu quả của thuốc tránh thai chứa hormone Một nghiên cứu về tương tác thuốc ở 16 người tình nguyện khỏe mạnh cho thấy rằng khi sử dụng kết hợp lamotrigine với một thuốc tránh thai chứa hormone (thuốc kết hợp ethinylestradiol/levonorgestrel) có gây tăng nhẹ độ thanh thải của levonorgestrel và thay đổi FSH và LH trong huyết thanh (xem phần Tương tác thuốc). Chưa biết ảnh hưởng của những thay đổi này đến sự rụng trứng. Tuy nhiên không thể loại trừ khả năng những thay đổi này gây giảm hiệu quả của thuốc tránh thai ở một vài bệnh nhân dùng các chế phẩm chứa hormone cùng với LAMICTAL. Do đó, nên hướng dẫn bệnh nhân thông báo ngay những thay đổi trong kỳ kinh như lượng máu kinh. Ảnh hưởng của lamotrigine trên chất nền vận chuyển cation hữu cơ 2 (OCT 2) Lamotrigine là một chất ức chế bài tiết ống thận thông qua protein OCT 2 (xem phần Tương tác thuốc). Điều này có thể dẫn đến việc tăng nồng độ trong huyết tương của một số thuốc đào thải chủ yếu qua đường này. Không khuyên dùng đồng thời LAMICTAL với các chất OCT 2 có chỉ số điều trị hẹp như dofetilide. Men khử dihydrofolate Lamotrigine ức chế nhẹ men khử dihydrofolate, do đó có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa folate khi điều trị kéo dài. Tuy nhiên, LAMICTAL không gây thay đổi đáng kể đến nồng độ haemoglobin, thể tích trung bình tế bào máu hoặc nồng độ folate trong huyết thanh hoặc trong hồng cầu khi điều trị ở người kéo dài đến 1 năm hoặc nồng độ folate trong hồng cầu khi dùng kéo dài đến 5 năm. Suy thận Nồng độ lamotrigine trong huyết tương không thay đổi đáng kể trong những nghiên cứu dùng liều duy nhất ở bệnh nhân suy thận ở giai đoạn cuối. Tuy nhiên dự đoán có sự tích lũy của chất chuyển hóa glucuronid; do đó nên thận trọng khi điều trị cho bệnh nhân suy thận. Những bệnh nhân đang dùng các chế phẩm khác chứa lamotrigine Không nên dùng LAMICTAL dạng viên nén cho những bệnh nhân hiện đang được điều trị với bất kỳ chế phẩm khác nào có chứa lamotrigine mà không có chỉ dẫn của bác sĩ. ECG kiểu Brugada Một mối liên hệ rất hiếm gặp với ECG kiểu Brugada đã được quan sát, mặc dù mối quan hệ nhân quả chưa được thiết lập. Do đó, cần thận trọng trước khi sử dụng LAMICTAL ở những bệnh nhân có hội chứng Brugada. ĐỘNG KINH Như các thuốc chống động kinh khác, ngừng sử dụng LAMICTAL đột ngột có thể gây những cơn co giật phản ứng. Nên giảm liều LAMICTAL một cách từ từ trong 2 tuần trừ khi cần ngừng đột ngột vì lý do an toàn (như phát ban). Đã có báo cáo trong các y văn rằng các cơn co giật nặng bao gồm trạng thái động kinh có thể dẫn đến huỷ cơ vân, rối loạn chức năng đa cơ quan và đông máu nội mạch rải rác, đôi khi có thể gây tử vong. Đã xuất hiện các trường hợp tương tự khi dùng LAMICTAL. RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC Trẻ em và thanh thiếu niên (dưới 18 tuổi): Điều trị bằng thuốc chống trầm cảm có liên quan đến tăng nguy cơ có ý định và hành vi tự tử ở trẻ em và thanh thiểu niên bị trầm cảm nặng và có các rối loạn tâm thần khác. - Thai kỳ và cho con bú Sự sinh sản Sử dụng lamotrigine không gây giảm khả năng sinh sản trong những nghiên cứu về khả năng sinh sản ở động vật. Không có kinh nghiệm về ảnh hưởng của LAMICTAL đến khả năng sinh sản ở người. Phụ nữ có thai Số liệu sau khi đưa thuốc ra thị trường từ nhiều nghiên cứu đăng ký tiến cứu theo dõi thai kỳ đã ghi lại kết quả của hơn 8.700 phụ nữ dùng đơn trị liệu LAMICTAL trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Nhìn chung, số liệu này không gợi ý sự gia tăng đáng kể nguy cơ các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng. Mặc dù số liệu từ một số ít các nghiên cứu đăng ký có ghi nhận tăng nguy cơ dị tật hở vòm miệng đơn lẻ, một nghiên cứu đối chứng ca bệnh đã hoàn tất không cho thấy tăng nguy cơ hở vòm miệng so với các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng khác sau khi sử dụng lamotrigine. Số liệu về việc sử dụng LAMICTAL trong các phối hợp đa trị liệu chưa đủ để đánh giá xem nguy cơ dị tật liên quan đến các thuốc khác có bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng kết hợp với LAMICTAL hay không. Tác động ức chế của Lamotrigine trên dihydrofolic acid reductase làm giảm nồng độ acid folic. Như các thuốc khác, chỉ dùng LAMICTAL trong thai kỳ khi lợi ích thu được vượt trội nguy cơ có thể xảy ra. Những thay đổi sinh lý trong thai kỳ có thể ảnh hưởng đến nồng độ lamotrigine và/hoặc hiệu quả điều trị. Đã có báo cáo về việc nồng độ lamotrigine bị giảm trong thời kỳ mang thai. Nên đảm bảo việc xử trí lâm sàng thích hợp cho những phụ nữ mang thai trong thời gian dùng LAMICTAL. Phụ nữ cho con bú Lamotrigine qua được sữa mẹ với nồng độ rất thay đổi, dẫn đến nồng độ lamotrigine ở trẻ nhũ nhi lên tới gần 50% nồng độ của mẹ. Do đó, ở vài trẻ bú sữa mẹ, nồng độ lamotrigine trong huyết thanh đạt đến mức có thể xuất hiện tác dụng dược lý. Nên cân nhắc lợi ích khi cho trẻ bú sữa mẹ so với nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ ở trẻ. - Khả năng lái xe và vận hành máy móc Hai nghiên cứu trên người tình nguyện đã cho thấy ảnh hưởng của LAMICTAL đến sự phối hợp vận động thị giác tinh tế, chuyển động của mắt sự lắc lư và tác động an thần chủ quan không khác biệt so với giả dược. Trong các thử nghiệm lâm sàng với LAMICTAL, các tác dụng phụ về thần kinh như hoa mắt và song thị đã được báo cáo. Do đó bệnh nhân nên xem xét việc điều trị bằng LAMICTAL ảnh hưởng đến họ như thế nào trước khi lái xe hoặc vận hành máy móc. Động kinh Do sự đáp ứng khác nhau của từng cá thể đối với tất cả các thuốc chống động kinh, bệnh nhân nên tham khảo ý kiến bác sĩ về các vấn đề cụ thể của việc lái xe và động kinh. - Tương tác thuốc Đã xác định được men uridine 5'-diphospho (UDP)-glucuronyl transferase (UGTs) chịu trách nhiệm chuyển hóa lamotrigine. Các thuốc có thể gây cảm ứng hoặc ức chế glucuronid hóa, do đó ảnh hưởng tới độ thanh thải của lamotrigine. Các chất cảm ứng trung bình hoặc mạnh men cytochrome P450 3A4 (CYP3A4), mà cũng được biết là gây cảm ứng UGTs, có thể cũng làm tăng sự chuyển hóa của lamotrigine. Các thuốc được chứng minh là có ảnh hưởng đáng kể về mặt lâm sàng tới sự chuyển hóa lamotrigine được liệt kê trong bảng 6. Hướng dẫn liều cụ thể đối với những thuốc này được cung cấp trong Liều dùng và Cách dùng. Không có bằng chứng lamotrigine gây cảm ứng hoặc ức chế đáng kể về mặt lâm sàng các men cytochrome P450. Lamotrigine có thể cảm ứng chuyển hóa chính bản thân nó nhưng tác động này nhẹ và không gây ảnh hưởng đáng kể trên lâm sàng. Bảng 6: Ảnh hưởng của các thuốc khác đến sự glucuronid hóa lamotrigine (xem phần Liều dùng và Cách dùng). Các thuốc ức chế đáng kể sự glucuronid hóa lamotrigine | Các thuốc cảm ứng đáng kể sự glucuronid hóa lamotrigine | Các thuốc không ức chế hoặc cảm ứng đáng kể sự glucuronid hóa lamotrigine | Valproate | Carbamazepine Phenytoin Primidone Phenobarbital Rifampicin Lopinavir/ritonavir Atazanavir/ritonavir * Phối hợp Ethinylestradiol/ levonorgestrel ** | Lithium Bupropion Olanzapine Oxcarbazepine Felbamate Gabapentin Levetiracetam Pregabalin Topiramate Zonisamide Aripiprazole Lacosamide Perampanel | * Hướng dẫn về liều dùng: xem phần Liều dùng và Cách dùng - Khuyến cáo chung về liều LAMICTAL ở các đối tượng đặc biệt. ** Việc dùng các thuốc tránh thai đường uống khác và trị liệu thay thế bằng hormone chưa được nghiên cứu, mặc dù những thuốc này có thể tác động tương tự đến các thông số dược động học của lamotrigine; xem phần Liều dùng và Cách dùng -Khuyến cáo chung về liều LAMICTAL ở các đối tượng đặc biệt (phần hướng dẫn liều dùng cho phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai chứa hormone) và phần Cảnh báo và Thận trọng khi dùng thuốc- Thuốc tránh thai chứa hormone. - Tương tác giữa các thuốc chống động kinh (xem phần Liều dùng và Cách dùng) Valproate, thuốc ức chế sự glucuronid hóa lamotrigine, làm giảm chuyển hóa lamotrigine và tăng thời gian bán hủy trung bình của lamotrigine lên gần gấp đôi. Một vài thuốc chống động kinh (như phenytoin, carbamazepine, phenobarbital và primidone) cảm ứng các men cytochrome P450, cũng gây cảm ứng UGTs và, do đó, làm tăng chuyển hóa lamotrigine. Đã có báo cáo về các biểu hiện của hệ thần kinh trung ương bao gồm hoa mắt, thất điều vận động, nhìn đôi, nhìn mờ và buồn nôn ở những bệnh nhân dùng carbamazepine sau khi dùng LAMICTAL. Những biểu hiện này thường mất đi khi giảm liều carbamazepine. Đã gặp ảnh hưởng tương tự trong một nghiên cứu dùng lamotrigine và oxcarbazepine ở những người lớn tình nguyện khỏe mạnh nhưng chưa nghiên cứu về sự giảm liều. Trong một nghiên cửu ở người lớn tình nguyện khỏe mạnh sử dụng 200 mg lamotrigine và 1.200 mg oxcarbazepine, cho thấy oxcarbazepine không ảnh hưởng đến chuyển hóa của lamotrigine và lamotrigine không ảnh hưởng đến chuyển hóa của oxcarbazepine. Trong một nghiên cứu ở người tình nguyện khỏe mạnh, sử dụng felbamate (liều 1.200 mg hai lần mỗi ngày) phối hợp với LAMICTAL (100 mg hai lần/ngày trong 10 ngày) cho thấy không có ảnh hưởng lâm sàng liên quan tới dược động học của lamotrigine. Dựa trên nghiên cứu phân tích hồi cứu về nồng độ huyết tương của các bệnh nhân điều trị với LAMICTAL trong cả 2 trường hợp dùng kết hợp hoặc không với gabapentin, cho thấy gabapentin không thay đổi độ thanh thải biểu kiến của lamotrigine. Tương tác thuốc có thể có giữa levetiracetam và lamotrigine được nghiên cứu dựa trên đánh giá nồng độ trong huyết thanh của cả hai thuốc trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm chứng với giả dược. Các dữ liệu này cho thấy lamotrigine không ảnh hưởng đến dược động học của levetiracetam và levetiracetam không ảnh hưởng đến dược động học của lamotrigine. Nồng độ đáy của lamotrigine trong huyết tương ở trạng thái ổn định không bị ảnh hưởng khi dùng kết hợp với pregabalin (200mg 3 lần mỗi ngày). Không có tương tác dược động học giữa lamotrigine và pregabalin. Topiramate không thay đổi nồng độ lamotrigine trong huyết tương. Sử dụng LAMICTAL làm tăng 15% nồng độ topiramate. Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân bị bệnh động kinh cho thấy sử dụng kết hợp zonisamide (200 đến 400 mg/ngày) cùng với LAMICTAL (150 đến 500 mg/ngày) trong 35 ngày không ảnh hưởng đáng kể đến dược động học của lamotrigine. Nồng độ trong huyết tương của lamotrigine không bị ảnh hưởng bởi việc dùng đồng thời với lacosamide (200, 400 hoặc 600 mg/ngày) trong các thử nghiệm lâm sàng có kiểm chứng với giả dược ở bệnh nhân bị động kinh cục bộ. Trong một phân tích dữ liệu tổng hợp từ ba thử nghiệm lâm sàng có kiểm chứng với giả dược nghiên cứu dùng perampanel phối hợp ở bệnh nhân động kinh cục bộ và bệnh nhân bị co cứng-co giật toàn thể nguyên phát, liều perampanel cao nhất được đánh giá (12 mg/ngày) làm tăng độ thanh thải lamotrigine xuống dưới 10%. Ảnh hưởng của độ lớn này không được coi là có liên quan đến lâm sàng. Mặc dù đã có báo cáo về thay đổi nồng độ các thuốc chống động kinh khác trong huyết tương nhưng không có bằng chứng cho thấy lamotrigine có ảnh hưởng đến nồng độ trong huyết tương của các thuốc chống động kinh dùng kết hợp trong những nghiên cứu có kiểm chứng. Bằng chứng từ những nghiên cứu in vitro chỉ ra rằng lamotrigine không thế chỗ các thuốc chống động kinh khác tại các vị trí gắn kết với protein. - Tương tác với các thuốc tâm thần khác (xem phần Liều dùng và Cách dùng) Dược động học của lithium sau khi uống 2 g gluconate lithium dạng khan, 2 lần/ngày trong 6 ngày ở 20 người tình nguyện khỏe mạnh không bị thay đổi khi dùng kết hợp LAMICTAL100 mg/ngày. Uống nhiều liều bupropion không ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến dược động học của LAMICTAL khi dùng liều duy nhất trên 12 người và chỉ gây tăng nhẹ AUC của lamotrigine glucuronide. Trong một nghiên cứu ở những người lớn tình nguyện khỏe mạnh, 15 mg olanzapine đã làm giảm AUC và Cmax của lamotrigine trung bình lần lượt là 24% và 20%. Tác động của thay đổi này nhìn chung không gây ra biểu hiện lâm sàng liên quan. Lamotrigine liều 200mg không ảnh hưởng đến dược động học của olanzapine. Nhiều liều uống LAMICTAL 400 mg mỗi ngày không có ảnh hưởng có ý nghĩa lâm sàng trên dược động học của liều đơn 2mg risperidone ở 14 người lớn tình nguyện khỏe mạnh. Sau khi dùng phối hợp 2mg risperidone và lamotrigine, có 12 trong số 14 người tình nguyện báo cáo có buồn ngủ, so với chỉ có 1/20 khi dùng risperidone đơn trị liệu, và không có bệnh nhân nào báo cáo buồn ngủ khi dùng LAMICTAL đơn trị liệu. Trong một nghiên cứu ở 18 bệnh nhân người lớn bị rối loạn lưỡng cực loại 1, dùng lamotrigine với phác đồ được thiết lập (>/= 100 mg/ngày), liều của aripiprazole được tăng từ 10 mg/ngày tới mức 30 mg/ngày trong vòng 7 ngày và được duy trì 1 lần/ngày trong 7 ngày tiếp theo. Đã thấy Cmax và AUC của lamotrigine giảm trung bình khoảng 10%. Tác động của thay đổi này được dự kiến là không có ý nghĩa lâm sàng. Các thử nghiệm ức chế in vitro cho thấy sự hình thành chất chuyển hóa chủ yếu của lamotrigine ở dạng 2-N-glucuronide ít bị ảnh hưởng khi được ủ chung với amitriptyline, bupropion, clonazepam, fluoxetine, haloperidol hoặc lorazepam. Số liệu chuyển hóa bufuralol từ microsome ở gan người gợi ý rằng lamotrigine không làm giảm sự thanh thải của các thuốc thải trừ chủ yếu bởi CYP2D6. Các kết quả của các thử nghiệm in vitro cũng gợi ý rằng độ thanh thải của lamotrigine thường không bị ảnh hưởng bởi clozapine, phenelzine, risperidone, sertraline hoặc trazodone. - Tương tác với các thuốc tránh thai chứa hormone Ảnh hưởng của các thuốc tránh thai chứa hormone đến dược động học của lamotrigine Trong 1 nghiên cứu ở 16 phụ nữ tình nguyện, viên thuốc tránh thai kết hợp chứa 30 microgram ethinylestradiol/150 microgram levonorgestrel đã gây tăng độ thanh thải của lamotrigine dùng đường uống lên khoảng 2 lần, dẫn đến giảm trung bình 52% AUC và 39% Cmax của lamotrigine. Nồng độ lamotrigine trong huyết thanh tăng dần trong tuần dùng thuốc không hoạt tính (ví dụ tuần “không dùng thuốc”) với nồng độ trước khi uống tại cuối tuần dùng thuốc không hoạt tính trung bình cao hơn khoảng 2 lần so với khi dùng kết hợp- xem phần Liều dùng và Cách dùng-Khuyến cáo chung về liều LAMICTAL cho các nhóm bệnh nhân đặc biệt (phần hướng dẫn liều dùng cho phụ nữ dùng thuốc tránh thai chứa hormone) và Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc - Thuốc tránh thai chứa hormone. Ảnh hưởng của lamotrigine đến dược động học của thuốc tránh thai chứa hormone Trong một nghiên cứu ở 16 phụ nữ tình nguyện, liều ở trạng thái ổn định 300mg lamotrigine không ảnh hưởng đến dược động học của thành phần ethinylestradiol của thuốc tránh thai kết hợp dạng uống. Đã thấy tăng nhẹ độ thanh thải của levonorgestrel, kết quả là gây giảm trung bình 19% AUC và 12% Cmax của levonorgestrel. Định lượng FSH, LH và estradiol huyết thanh trong quá trình nghiên cứu cho thấy mất một số tác dụng ức chế của hormone sinh dục buồng trứng ở một vài phụ nữ mặc dù định lượng nồng độ progesterone trong huyết thanh không cho thấy bằng chứng xuất hiện của hormone gây rụng trứng ở 16 đối tượng này. Chưa biết ảnh hưởng của việc tăng nhẹ độ thanh thải levonorgestrel và những thay đổi FSH và LH trong huyết thanh đối với sự rụng trứng (xem phần Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc). Chưa tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của những liều lamotrigine khác liều 300 mg/ngày và các chế phẩm chứa hormone sinh dục nữ khác. - Tương tác với các thuốc khác Một nghiên cứu ở 10 nam giới tình nguyện, rifampicin đã làm tăng độ thanh thải lamotrigine và làm giảm thời gian bán hủy của lamotrigine do sự cảm ứng các enzyme tại gan trong quá trình glucuronid hóa. Ở những bệnh nhân điều trị kết hợp với rifampicin nên sử dụng phác đồ điều trị kết hợp lamotrigine với các thuốc cảm ứng sự glucuronid hóa (xem phần Liều dùng và Cách dùng). Một nghiên cứu trên những người tình nguyện khỏe mạnh cho thấy lopinavir/ritonavir làm giảm khoảng 1 nửa nồng độ lamotrigine huyết tương, có thể do sự cảm ứng sự glucuronid hóa. Ở bệnh nhân sử dụng kết hợp với lopinavir/ritonavir, nên sử dụng phác đồ điều trị phối hợp lamotrigine và các thuốc cảm ứng sự glucuronid hóa (xem phần Liều dùng và Cách dùng). Atazanavir/ritonavir (300 mg/100 mg) làm giảm trung bình 32% AUC huyết tương và 6% Cmax của lamotrigine (liều duy nhất 100 mg) trong một nghiên cứu trên người tình nguyện trưởng thành khỏe mạnh (xem phần Liều dùng và Cách dùng - Khuyến cáo chung về liều LAMICTAL cho các nhóm bệnh nhân đặc biệt). Dữ liệu từ nghiên cứu in vitro đánh giá tác dụng của lamotrigine ở OCT 2 cho thấy lamotrigine - chứ không phải chất chuyển hóa N(2)-glucuronide - là chất ức chế OCT 2 ở nồng độ có thể liên quan trên lâm sàng. Những dữ liệu này cho thấy lamotrigine là một chất ức chế OCT 2, với IC50 là 53,8 μM (xem phần Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc). - Tương tác có liên quan đến các xét nghiệm cận lâm sàng Đã có báo cáo LAMICTAL ảnh hưởng đến xét nghiệm dùng trong kiểm tra nhanh sự hiện diện của thuốc trong nước tiểu, và có thể dẫn đến dương tính giả, đặc biệt là xét nghiệm tìm phencyclidine (PCP). Nên sử dụng phương pháp hóa học đặc hiệu hơn để khẳng định kết quả dương tính. Tương kỵ Không có dữ liệu. Do không có các nghiên cứu về tính tương kỵ của thuốc, không trộn lẫn thuốc này với các thuốc khác. |